Hai khía cạnh rất đáng chú ý trong việc nhận thức về cường độ âm thanh và làm cho nó thích hợp khi sử dụng đơn vị đo lường đặc biệt là decibel.
Thứ nhất, năng lượng âm thanh có phạm vi 10,000,000,000,000 trên một (to-one) mà tai có thể nghe thấy sẽ rất khó nghĩ khi làm việc với những trị số quá đơn giản. Thứ hai và quan trọng hơn, thính giác nhận thấy cường độ khác nhau cách chính xác hơn, giống như chia theo độ logarit hơn là độ tuyến tính.
Hãy tưởng tượng hệ thống âm thanh cho ra một âm sắc (tone) có cường độ ổn định và có một người nghe nằm gần đó. Nói rằng: output của amplifier đo được 1 watt. Nếu mức độ đo được của âm sắc đó tăng gấp đối tới 2 watt, người nghe sẽ không cảm nhận được âm thanh sẽ lớn lên hai lần. Thật ra, sự khác biệt này chỉ hơi lớn hơn sự khác biệt để nhận thức ở mức tối thiểu (ở cấp độ âm thanh vừa phải) của một người nghe trình độ trung bình, và hầu như không được để ý tới.
Hãy tưởng tượng trên cùng hệ thống đó lần nữa, tăng tone đó để đo output của amplifier được 5 watt. Một tone giống y vậy ở amplifier phát ra 6 watt (cũng tăng 1 watt, như trong thí dụ trước) nói chung sự khác biệt đáng để ý sẽ ít hơn rất nhiều. Mức độ gia tăng cường độ được đánh giá là tương tự như thí dụ đầu tiên, tone 5 watt sẽ cần phải nhân gần gấp đôi, lên khoảng 10 watt. Điều này giải thích nếu tăng gấp đôi cường độ âm, như trong thí dụ đầu tiên, sự phân biệt tối thiểu của hầu hết người nghe chỉ có hơi bằng hay hơn một chút.
Giống như bát độ (octave) của âm nhạc đã giới thiệu từ nhiều thập niên trước đây, decibel là số lượng tương đối, mặc dù nó dựa trên tỷ lệ giữa cường độ âm thanh hơn là tần số. Thường sử dụng decibel khi đề cập đến tín hiệu âm thanh tại mỗi điểm trong đường đi của nó qua lĩnh vực điện tử là tốt nhất, vì nó tiêu biểu cho sức mạnh của tín hiệu mà cuối cùng được tái tạo và đưa vào lĩnh vực thính giác. Cần lưu ý, khi tăng mỗi 3dB, ở output yêu cầu tăng gấp đôi công suất ra loa.
Cũng như tỷ lệ giữa những tần số âm nhạc, thường đòi hỏi điểm tham chiếu tiêu chuẩn (thường là nốt La (A), 440Hz), do đó, decibel cũng vậy. Điểm tham chiếu cho cường độ âm thanh đã được chấp nhận là áp suất âm thanh tối thiểu (tại 1kHz) được nghe bởi một đứa trẻ trung bình (0,0002 dynes/cm2). Đây được coi là mức áp suất âm thanh ở 0dB (0dB SPL). Cường độ âm cao nhất được đặt ở khoảng 140dB SPL, mặc dù âm thanh xảy ra mức này, là tiếng súng nổ, động cơ phản lực v.v. (Mức vượt quá xa ngưỡng đau tai cho tất cả mọi người, và trong vài trường hợp có thể xảy ra thiệt hại nghiêm trọng đến cơ chế nghe, ngay cả khi chỉ tiếp xúc tương đối ngắn).
Decibel là một số lượng tương đối. Về mặt kỹ thuật, việc sử dụng những phép đo bằng decibel (dB), không có tiêu chuẩn nào khác, chỉ đơn giản là so sánh hai mức cường độ trên bảng chia loagarithm.
Thông thường, thuật ngữ này được hiểu là đề cập đến một trong những bảng chia giới thiệu trong những phần sau. Thí dụ, khi nói: “hệ thống sản xuất khoảng 100dB tại 10 feet” là suy đoán của một kỹ sư khi chỉ số dB SPL tại 10 feet. Tương tự như vậy, khi nói: “đầu ra (output) danh định của mixer là 4 dB”, thường sẽ được đoán là +4 dBu (hay tương đương).
Máy tăng âm truyền thanh là bộ phận đầu não của hệ thống truyền thanh cáp, có nhiệm vụ: Khuếch đại tín hiệu âm tần nhỏ như tín hiệu từ micro, tín hiệu từ đầu đĩa, USB thành tín hiệu có công suất lớn hàng ngàn W cung cấp cho các loa trong hệ thống truyền thanh.
Tăng âm truyền thanh TOA chất lượng cao với mẫu mã đa dạng, nhiều kiểu dáng hiện đại, thích hợp với các hệ thống thông báo chuyên nghiệp.