Sự khác biệt giữa những mô hình định hướng cơ bản

Thông thường, có thể sử dụng micro cardioid, supercardioid hay hypercardioid trong cùng khoảng cách.

Sự khác biệt giữa mô hình supercardioid, hypercardioid và cardioids

Nhưng những mô hình supercardioid hay hypercardioid có thể là sự lựa chọn thích hợp hơn so với cardioids trong vài tình huống, chẳng hạn như yêu cầu mức output hệ thống phải rất cao, hay khi cần phải tăng khoảng cách từ nguồn tới micro lên, nhưng không kéo theo việc lắc (swing) rộng nguồn âm thanh cạnh này qua cạnh kia (side-to-side). Mặc dù gốc làm việc hiệu ứng side-to-side có phần giảm, sự loại trừ của âm thanh tiếp cận từ hai bên trực tiếp và những góc độ rộng hơn về phía sau sẽ hiệu quả hơn.

Sự khác biệt giữa những mô hình định hướng cơ bản

Như đã nêu trước đây, tiềm năng đánh đổi cân bằng (trade-off) với supercardioids và hypercardioids là khả năng thu nhận âm thanh từ những góc gần trực tiếp phía sau (150-180 độ ngoài trục). Nhưng đôi khi, hiệu quả việc thu nhận phía sau không đáng kể, so với những lợi ích khả thi của việc thu ngoài trục giảm toàn bộ.

Khi supercardioids và hypercardioids cơ bản có hiệu ứng gần phong phú hơn cardioids, sự thu nhận tương đối của nhiều nguồn xa, nó đến hướng nào không thành vấn đề, tiếp tục giảm khi sử dụng gần, đặc biệt trong giải thấp khoảng 500Hz. Thí dụ, việc hủy bỏ/chênh lệch tiếng nhiễu của microphone hypercardioid, minh họa trong hình 5.10 phụ thuộc rất nhiều vào hiệu ứng này, bằng cách dùng nó phối hợp với mô hình định hướng của nó để làm giảm hiệu lực tương đối của những âm thanh chung quanh. Cách tiếp cận này có thể hữu ích ở mức độ rất cao khi bố trí micro gần, vài thiết kế bán trên thị trường nhằm mục đích cụ thể này. Đây là loại micro cũng có thể rất hữu ích như micro phóng thanh thông báo trong môi trường ồn ào (nhà máy, vài loại sự kiện thể thao, trung tâm điều hành giao thông, v.v),

Thật thú vị, khi micro supercardioid hay hypercardioid sử dụng rất gần cho màn trình diễn cao cấp, sự thu nhận từ trực tiếp phía sau không chỉ thành ra ít quan trọng, mà còn thật sự có thể có ưu điểm ở vài tần số (thường trên giải midle và treble). Điều này là do một lượng âm thanh nhất định bị nẩy ra khỏi mặt của người nói hay hát gần, đặc biệt khi có loa monitor sân khấu đặt tại vị trí phía sau micro (nó thật sự có một phần phản dội và một phần cộng hưởng). Vì sự thu nhận phía sau là những phase nghịch, nó cũng có thể giúp loại bỏ một số âm thanh dội lại từ mặt. Sự trao đổi với việc sử dụng gần của một hypercardioid (thí dụ, một trong những hiệu ứng gần không bị loại trừ trong thiết kế) là thay đổi khoảng cách nguồn đến micro hay dịch chuyển sang một bên đáng kể, có thể thay đổi sự thu nhận nguồn âm thanh dự định, cả về mức độ lẫn chất lượng âm như vậy, ở đây cần duy trì những vị trí nằm gần trên trục khá cẩn trọng.

Đồng thời, thường yêu cầu vài phương pháp cắt giảm đáp ứng tần số thấp có hiệu quả (điều này phụ thuộc vào đáp ứng tần số ở mức thấp), để tránh cho ra nhiều tần số thấp. Điều này có thể liên quan đến tổn thất bổ sung, hay tổn thất của micro có gắn kèm switch low-cut, hay ở những tổn thất của EQ đa năng hơn.

Tăng âm mixer TOA A-2240D

Sự khác biệt giữa những mô hình định hướng cơ bản

Amply A-2240D của Toa là loại amply liền công suất, do dó chất lượng âm thanh sau khi được xử lý bởi sản phẩm vô cùng sạch và có độ vang cao. Không nhiều sản phẩm với cùng mức giá trên thị trường có khả năng xử lý âm thanh tốt như nó.

Chiếc A-2240D của Toa có thể phục vụ rất nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt nếu biết kết hợp nó với các dòng loa phóng thanh , loa treo tường thì chất lượng sản phẩm mới có thể đẩy lên cao nhất.

Xem thêm:

TCA lắp đặt âm thanh