Từ trước đến nay, rất nhiều nghiên cứu đã tập trung vào tầm nhìn vi mô về âm thanh và thính giác. Một chu kỳ của sóng đơn giản hay phức tạp trong âm phổ xảy ra nhanh hơn 0,05 giây (1/20 của một giây).
Khoảng thời gian này là quá nhỏ, trong nhiều trường hợp, để người nghe nhận ra âm thanh (ngoại trừ có lẽ tự hỏi “Cái gì vậy?”). Hiểu theo phương diện nào đó, điều này là hành động ngăn chặn quan niệm về âm thanh. Chúng ta sẽ đưa tầm nhìn vi mô này vào viễn cảnh có phần lớn hơn.
Chất lượng âm sắc của âm thanh, xác định bằng âm phổ của tần số chứa nó là yếu tố quan trọng trong việc cho phép thính giác phân biệt giữa âm thanh này với âm thanh khác. Âm thanh nào về bản chất cũng không kém quan trọng, tuy nhiên lại là cách thức những dạng sóng thay đổi (hay không) trong suốt thời gian âm thanh hoạt động. Tầm quan trọng của những thay đổi như vậy trong việc ghi nhận âm thanh dễ thể hiện qua nhiều kinh nghiệm của chúng ta khi có nhận ra những âm thanh khác nhau, khi nghe lại băng, đĩa.
Trước tiên, hãy xem xét những dạng sóng tương đối đơn giản liên quan tới âm nhạc. Cách rõ nhất, phần lớn âm thanh âm nhạc thay đổi đều do cường độ tổng thể của nó. Điều này thể hiện bằng đồ thị thích hợp nói về sự phát triển của âm thanh. Hình 1 cho thấy sự phát triển đặc trưng của âm thanh của vài nhạc cụ.
Đây là loại đồ thị thể hiện cách đơn giản sự năng động tổng thể của âm thanh, từ khoảng 1/20 một giây đến vài giây, ở đây, sóng tự nó bị bỏ qua, thay vì hình dung đơn giản là những đường gần mức tổng thể có thể đo hay nghe thấy.
Ngoài sự phát triển tổng thể của loại này, loại âm thanh khác biến thiên theo tần số cũng như vậy.
Thông thường, âm thanh nhạc cụ liên quan đến hàm lượng của âm thanh có tần số cao hơn mức tăng và hàm lượng ít tần số cao khi giảm mức độ của nó.
Về cơ bản, sự tiến triển có thể được chia thành ba phương diện: tấn công (chạm), duy trì và phân rã (attack, sustain, decay). Tấn công (attack) dùng để chỉ thời gian cần cho cường độ âm thanh đạt đến cao điểm ban đầu của nó. Duy trì (sustain) mô tả việc duy trì mức độ tương đối ổn định, trong khi phân rã (decay) mô tả cách thức âm thanh giảm cường độ dần. Vấn đề này thường có trong sự thay đổi nhiều kết hợp khác nhau. Thí dụ, attack nhanh và decay ban đầu có thể có sustain theo sau và sau đó decay hơn nữa, v.v. Lưu ý thêm là trên bảng điều khiển của nhạc cụ điện tử, đôi khi từ ngữ sustain và decay dùng để nói về những chức năng hơi khác với mô tả ở đây.
Biểu đồ phát triển âm thanh sẽ có hữu ích khi thể hiện sự năng động tổng thể của âm thanh, dù sao đó là giới hạn trong đó tất cả tần số liên quan thường không thay đổi cường độ theo cùng một cách. Sự thay đổi này có thể gọi là động lực nội bộ (internal dynamic) trong sự phát triển. Hình 2 phía trên cho thấy đồ thị, gọi là phân tích âm phổ (spectral analysis), một nốt nhạc chơi trên piano có cần đạp chân sustain. Phân tích âm phổ giới thiệu vài dạng thức trong loại đồ thị biểu diễn cường độ của mỗi tần số hiện diện trong một âm thanh, được chỉ định bằng đường tiêu biểu mờ dần (darkness). Những bội âm cao hơn những âm thanh của piano có thể thấy rõ đã phân rã (decay) nhanh hơn những bội âm cơ bản và thấp hơn. Đây là loại mô hình có sự hiện diện tương đối của nhiều tần số cao bị làm giảm bớt so với việc giảm cường độ chung, đúng với hầu hết nhạc cụ acoustic.
Chú ý, những họa âm (harmonic) cao decay nhanh hơn họa âm thấp. Sự hiện diện của những họa âm cao là một trong những dấu hiệu thính giác sử dụng nó như là một chỉ số của cả hai: cường độ lẫn độ gần với nguồn. Đây là một trong những lý do chúng ta có thể nén (compress) âm thanh âm nhạc lại để giảm những biến thể năng động (dynamic) rộng nhưng vẫn cho phép nhạc cụ hay voice tiến đến âm thanh năng động, miễn là cường độ tương đối của những họa âm còn nguyên vẹn, không bị ảnh hưởng. Hiểu biết về tầm quan trọng của sức mạnh tương đối của những họa âm bắt đầu gợi ý cho chúng ta việc nâng volume của voice hay nhạc cụ không phải là cách duy nhất để tăng độ rõ.
Cho dù, trong vài trường hợp gần như trái ngược (opposite), có thể lại là sự thật. Hai thí dụ dễ thấy là những âm thanh ở đàn sitar và cái chiêng. Trong cả hai thí dụ, cường độ tối đa của tần số cao hơn bị trì hoãn (delay) cho đến sau khi sự lựa chọn ban đầu hay hành động ấn tượng. Đó là đặc điểm để giải thích cho nhiều tính chất lập dị của chính âm thanh. Tương tự như đánh lừa sự quan hệ giữa sự hiện diện tần số cao và cường độ chung, thường thực hiện với nhạc cụ điện tử tổng hợp (synthesize), là một trong những yếu tố để giải thích nó thường không tự nhiên hay là đặc trưng cho âm thanh điện từ.
Âm thanh phát âm (vocal) thường phức tạp hơn nhiều so với âm thanh nhạc cụ, bao gồm khá nhiều khởi đầu, dừng lại và lướt qua nhiều cao độ và sự cộng hưởng đi lên lẫn xuống, để biến thành cơ sở cho ngôn ngữ nói và cho lời nhạc của bài hát.
Khả năng của hệ thống pro-sound là thu nhận âm thanh, nhân bản và phân phối cho khán giả một phổ tần số cần thiết có trong những âm thanh nó đã đảm nhận, trong nhiều trường hợp có thể khá quan trọng không chỉ cho chất lượng âm (tonal), mà còn cho chất lượng năng động. Thí dụ, những âm thanh va chạm (attack) của dùi chạm với mặt trống có liên quan đến giải tần số rất khác so với những rung động của chính mặt trống. Nếu, cho thí dụ rất cơ bản, những tần số liên quan đến những âm thanh liên hệ với hệ thống đang thiếu âm thanh output, tiếng bộ trống gõ mạnh trong toàn bộ âm thanh có thể thường bị như vậy.
TOA BS-1030B/ BS-1030W là loa 2-way bass-reflex loại nhỏ với một dải tần số rộng phù hợp cho hệ thống âm thanh thông báo, nghe nhạc. Với công suất định mức 30W và hệ thống biến áp cao cho người dùng có khả năng tùy biến tốt nhất. Được sơn một lớp sơn tĩnh điện và khả năng chống chịu nước cao BS-1030B/ BS-1030W có thể đặt dưới hiên mái nhà.